Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

Dạ cổ hoài lang: bài ca vua trên sân khấu cải lương Nam Bộ

“Dạ cổ hoài lang vừa mang niềm riêng của tác giả, vừa chất chứa nỗi buồn chung của thời đại vong quốc. Buồn nhưng không bi lụy, nét nhạc lạc quan trỗi lên ở cuối bài khiến bài ca thấm đượm nỗi lòng của điệu buồi ai oán phương Nam, nhưng lại gợi mở một niềm tin về phận nước. Ở đấy, người nghe cảm nhận được nỗi lòng, thấy được mơ ước, khát khao của chính mình. Chính vì vậy, qua bao thế hệ, bao tầng lớp khắp vùng Nam bộ, kẻ sĩ lẫn dân quê từng gõ nhịp hát Dạ cổ hoài lang để nghe tiếng lòng thầm thì, buồn vui và hy vọng”, cảm nhận bài Dạ cổ hoài lang của cố nhạc sĩ (NS) Cao Văn Lầu ra đời cách đây 91 năm của nhiều người dân Nam bộ là như thế..

Anh đi cưới vợ, em về với mẹ cha...

Vào một đêm cuối năm 1896, có 20 gia đình nông dân nghèo ở xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, huyện Vàm Cỏ, Long An, vì không chịu nổi cảnh sưu cao thuế nặng của bọn quan lại địa phương đã âm thầm trốn đi xứ khác. Sau nhiều ngày lênh đênh trên sông nước phương Nam, 20 gia đình cùng khổ dừng chân nơi vùng đất Bạc Liêu trù phú. Trong số đó có gia đình ông Cao Văn Giỏi, cha của Cao Văn Lầu lúc ấy chưa tròn 5 tuổi (sinh 1892).

Ông Cao Văn Giỏi là người rất trọng đạo nho, ông “không sợ nghèo, chỉ sợ không giữ được đạo”. Nên khi đến vùng đất mới mưu sinh, ở tạm dưới mái hiên chùa Vĩnh Phước An, ông gửi Cao Văn Lầu vào chùa học chữ nho. Học chữ nho được vài năm thì phong trào chữ quốc ngữ bắt đầu phát triển, ông cho con thôi học chữ nho chuyển sang chữ Quốc ngữ. Nhờ sáng dạ nên rất được thầy yêu, bạn mến. Học đến lớp nhì (nay là lớp 4) ông nghỉ học theo cha đi làm kiếm sống. Cao Văn Lầu nghỉ học nhiều năm mà gia đình chẳng vơi đi chút khó khăn nào. Cha ông tỏ ra hối hận. May thay, lúc bấy giờ ở xóm Rạch Ông Bổn có ông thầy đờn Lê Tài Khị, tục gọi Nhạc Khị, nổi tiếng môn nhạc lễ và nhạc tài tử bởi ngón đàn điêu luyện. Thế là Cao Văn Lầu được cha cho thọ giáo thầy Nhạc Khị. Nhạc Khị dạy dỗ rất nghiêm khắc, trò nào lơ đểnh, đàn sai câu lỗi nhịp thường bị ông phạt nặng. Ông thường nhắc học trò “học nhạc còn là học đạo lý”, còn “đờn lạc điệu như tín đồ lạc đạo, lỗi nhịp đờn như lỗi đường gươm”. Nhờ chăm chỉ thụ giáo ngón đờn của thầy nên chẳng bao lâu Cao Văn Lầu sử dụng thành thạo các nhạc cụ: đàn tranh, cò, kìm, trống lễ... và trở thành nhạc sĩ nồng cốt trong ban nhạc của thầy.

Ban nhạc của Cao Văn Lầu hoạt động theo hình thức nhạc lễ kết hợp với đờn ca tài tử. Trong các cuộc tế lễ ban đêm, thầy tụng xả hơi thì ban nhạc bày ra đờn ca tài tử, một hình thức mới mà bấy lâu thầy Nhạc Khị chưa có điều kiện thực hiện. Nhờ đó khách đến dự đám vui thích ở lại suốt đêm. Danh tiếng Cao Văn Lầu mỗi lúc một vang xa. Soạn giả Mộng Vân, một người bạn đồng môn lập gánh hát mời ông về làm nhạc trưởng. Vì tình đồng môn, ông nhận lời. Theo đoàn hát được vài năm, lúc này đã 21 tuổi nên cha mẹ bắt về cưới vợ. Ông cưới bà Trần Thị Tấn, một phụ nữ nết na, hiền thục ở xóm biển Bạc Liêu. Để có tiền cưới vợ, ông phải vay 80 đồng của bà Sư Chơn, mỗi ngày lãi 1,6 đồng tiền lời cắt cổ. Sau đám cưới, hai vợ chồng phải đi vào rừng mò củi, xúc tép để kiếm tiền trả lãi. Suốt ba năm trời quần quật kham khổ, nợ trả xong cũng là lúc người vợ gầy héo không thể sinh con. Ác nghiệt thay, cái câu “Tam niên vô tử bất thành thê”, một quan niệm tàn nhẫn của phong kiến khiến nhiều đôi lứa bị chia duyên rẽ thúy. Vợ chồng Cao Văn Lầu cũng không thoát khỏi quan niệm ấy, khi mẹ ông bảo: “Con lo liệu mà kiếm vợ khác để nối dõi tông đường. Đó là chữ hiếu của con mà mẹ cũng trọn đạo với nhà chồng”. Nghe qua nghiêm lệnh của mẹ như trời long đất lỡ. Hạnh phúc lứa đôi rồi đây sẽ sụp đổ. Thương người vợ hiền tần tảo, thủy chung nào hay tin dữ. Ông hiểu phận làm con phải lấy chữ hiếu làm trọng, nhưng chữ tình nào dám đâu coi rẻ.

Sau một thời gian dài không thấy con trai thi hành nghiêm lệnh, bà gọi con dâu lại và cho biết ý định của mình. Vợ Cao Văn Lầu là một phụ nữ lam lũ, giỏi chịu đựng, song nghe qua nghiêm lệnh của mẹ chồng bà không khỏi bàng hoàng nhưng chỉ biết nuốt nước mắt vào trong. Hơn ai hết, bà hiểu có cải lại mẹ thì kết cục vẫn không lấy gì tốt đẹp. Hôm ấy, bà cố tỏ ra bình thường như mọi ngày cùng chồng vào rừng mò củi, xúc tép để mưu sinh. Đến trưa, củi đầy xuồng, tép cũng nhiều. Hai vợ chồng dọn cơm lên mũi xuồng, đứng dưới nước ăn. Bất chợt vợ Cao Văn Lầu nghẹn ngào nói: “Má không cho mình ở với nhau. Thôi anh cưới vợ khác, em về với cha mẹ em. Bữa cơm này là bữa cơm hạnh phúc cuối cùng...”. Nói xong hai vợ chồng gụt đầu nức nở.

Trước sự hối thúc của thân mẫu, ông đau lòng nhưng đành làm theo nghiêm lệnh. Chiều nọ, hai vợ chồng ra bìa ruộng, hướng về nhà cha mẹ vợ. Vợ chồng ôm nhau nức nở, đến chạng vạng buộc lòng phải chia tay. Vợ ông chỉ ôm theo gói quần áo cũ, thấy vậy ông lấy khăn rằn đội lên đầu cho vợ ra đi. Tay lau nước mắt, chân bước thất thểu ra đồng như đi về nơi vô tận.

Sau khi vợ đi rồi, ông như người mất hồn. Một hôm ông sang nhà nhạc phụ tìm vợ, thì được tin vợ ông không trở về. Lòng ông hoang mang, tìm kiếm khắp nơi nhưng hình bóng người vợ hiền vẫn bặt tin. Suốt một năm ròng, ông tìm khắp trong vùng chẳng biết vợ ở đâu, đành ôm sầu nuốt lệ. Lòng ngổn ngang bao nỗi buồn đau. Cứ mỗi độ chiều tàn ông xách đờn ra bìa ruộng, nơi vợ chồng ly biệt, nhìn ra đồng mà hình dung bóng vợ khuất dần giữa trời đêm. Ông gãy đờn theo tâm trạng vợ hết Xuân nữ đến Nam ai rồi Trường tương tư, những tiếng đờn biệt ly đẫm lệ.

Bài ca... nhớ vợ!

Sau nhiều tháng làm bạn với cây đờn bên bìa ruộng, hình dung bóng vợ gạt lệ ra đi. Từng bước, từng bước biệt ly mà lòng đau quặng thắt nỗi nhớ thương chồng, nỗi tủi phận mình làm thân con gái bạc phận. Trong tâm trạng nhớ nhung tột độ, ông đặt mình vào vị thế người vợ đang mong ngóng chồng mà sáng tác bản Hoài lang (nhớ chồng). Ông vừa đờn vừa ca, mãi mê trau chuốt bản đờn sao cho ngọt ngào, lột tả nỗi lòng khi “én nhạn lìa đôi”. Đến khi nghe tiếng trống điểm canh vọng lại ông mới giật mình vì đêm đã khuya. Ông chợt nghĩ: tiếng trống đêm đánh lên trong khi mình đờn bài Hoài lang. À, phải rồi. Âu là mình lấy hai chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thêm vào bản nhạc Hoài lang thành Dạ cổ hoài lang (đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) vậy là hay biết mấy. Để rồi vào một đêm rằm tháng 8/1919, tại làng Vĩnh Hương, tổng Hòa Thạnh (nay là phường 2, thị xã Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu, NS Cao Văn Lầu đã chính thức công bố bản Dạ cổ hoài lang với 20 câu làm não ruột người nghe*.

Sau này theo lời kể của ông Cao Kiến Thiết, con trai trưởng của NS Cao Văn Lầu, ông bảo có lần nghe cha mình tâm sự với bạn bè: “Lúc ấy tôi nghĩ, giờ này vợ mình ở đâu? Chắc chắn là vợ mình thương mình nhiều hơn mình thương vợ mình. Số phận vợ mình sao mà giống thân phận nàng Tô Huệ, quá thương chồng nên dệt bức Chức cẩm hồn văn dâng lên vua để tỏ lòng nhớ thương chồng. Hay nàng Tô Thị thương chồng đứng đợi chồng cho đến khi hóa đá. Nên tôi viết bài Dạ cổ Hoài Lang”.

Theo nghệ sĩ Lâm Tường Vân, Dạ cổ hoài lang là tiếng nấc của người NS tài hoa Cao Văn Lầu. Là bản nhạc lòng không phải để phô trương. Chỉ để chia sẻ với tri kỷ, tri âm. Bản Dạ cổ hoài lang là một Bản oán đặc biệt, buồn biệt ly và hy vọng đợi chờ. Người may mắn được ông truyền dạy bản Dạ cổ hoài lang đầu tiên là nghệ sĩ Bảy Cao, kế đến là Lưu Hoài Nghĩa, rồi lần lượt đến các nghệ sĩ khác và người hâm mộ...

Bản Dạ cổ hoài lang tuy đã hoàn chỉnh, nhưng NS Cao Văn Lầu vẫn chưa an lòng. Ông không thể cam chịu cảnh chia ly vĩnh viễn để một mình khóc với bài ca. Ông quyết tâm đi vào từng xóm, từng nhà để tìm vợ. Và rồi ông tìm được vợ ẩn sau mái chùa làm công quả. Sau thời gian dài phu thê cam chịu cảnh “đêm đông gối chiếc cô phòng”, cuộc trùng phùng như được tái sinh. Từ đó ông thường lui tới thăm vợ. Sợ lâu ngày bại lộ, ông thay đổi chổ ở cho vợ nhiều lần. Từ am nhà ông Chính qua nhà bà chủ Đường rồi đến nhà bà Xịu... toàn những nơi kín đáo, thân tình. Ít lâu sau, ông được tin vợ mang thai, đối với ông hạnh phúc như tràn ngập trên cõi đời. Tuy vậy ông cũng có chút lo âu, vì mẹ bảo bỏ vợ nay còn lén lút dang díu. Song ông kiên quyết “liều” về thưa với mẹ. Thân mẫu ông nghe qua như bắt được vàng, hối thúc ông mau chuẩn bị xuồng đi đón con dâu trở về.

Báu vật của nghệ thuật cải lương

Vừa ra đời, bản Dạ cổ hoài lang đã chiếm được cảm tình giới mộ điệu và nhanh chóng trở thành bài ca “vua” trên sân khấu cải lương Nam bộ. Theo GSTS. Trần Văn Khê, khi ấy bài Dạ cổ hoài lang đã có nhiều gánh cải lương đua nhau giới thiệu, nhiều nghệ sĩ cải lương danh tiếng như Cô Hai Đá, cô Ba Bến Tre, cô Bảy Phùng Há, Năm Châu và Tư Út... cũng thích ca bản này. Các hãng đĩa nổi tiếng lúc bấy giờ là Pathé – Phono, Beka, Columbia... cũng nhảy vào cuộc. Cũng theo GSTS. Trần Văn Khê, cái làm nó đi vào lòng người chính là tâm sự riêng của NS phù hợp với nỗi niềm của thời đại. Những người phụ nữ có chồng bị bắt lính, tham chiến tại Pháp trong thế chiến thứ nhất thấy lời ca gần gũi với tâm trạng của họ. Còn những người có tấm lòng ưu ái với đất nước lại thấy ở bản nhạc nỗi buồn trĩu nặng vì vận nước, song vẫn bùng lên hy vọng ở tương lai qua lời ca lạc quan ở cuối bài. Giai điệu Từ là từ phu tướng – Báu kiếm sắc phán lên đàng... mỗi lần vang lên như tiếng lòng chinh phu, ngầm thôi thúc nhiều người mạnh dạn lên đường.

Qua mỗi giai đoạn phát triển bản Dạ cổ hoài lang thêm hoàn thiện và chuyển dần thành nhiều nhịp. Từ lúc ra đời với nhịp đôi, tăng lên nhịp 4, 8, 16, 32... Và cứ mỗi lần phát triển, bài Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên bản như các bài nhạc cổ khác, mà dần biến đổi hình thức, làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương. Đây cũng là điều tối ưu của nó, có lẽ bởi tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị hợp với tấm lòng người Nam bộ. Thập niên 1960, được coi là bước chuyển mạnh mẽ nhất của bản Dạ cổ hoài lang, soạn giả Viễn Châu tạo nên mối lương duyên kỳ lạ, khi kết hợp tân nhạc vào bản vọng cổ cho ra đời bản Tân cổ giao duyên và trở thành bài ca chính thống, bài ca vua trên sân khấu cải lương. Các điệu Lý con sáo, Lý giao duyên... đan xen vào làm phong phú thêm cho bài vọng cổ. Từ đây, bản vọng cổ đã góp phần mang lại sự vinh quang cho nhiều lớp nghệ sĩ, danh ca, danh cầm, soạn giả cải lương... Để rồi tên tuổi, giọng ca của họ thấm sâu vào lòng người mộ điệu qua những cung bậc, thang âm, điệu thức réo rắc bỗng trầm. Và các NS tha hồ thể hiện ngón đờn tài hoa của mình quyện cùng giọng hát ngọt ngào của người nghệ sĩ.

Đến nay, bản Dạ cổ hoài lang đã phát triển thành bản vọng cổ, một bài bản quan trong nhất trong đờn ca tài tử và nghệ thuật sân khấu cải lương. Bản vọng cổ đã gắn liền với sinh hoạt đời thường của mọi tầng lớp nhân dân, là một bài bản, làng điệu, dễ ca, dễ thuộc nên hầu hết mọi lứa tuổi ai cũng thể hiện được. Lúc buồn vọng cổ giúp giải bày tâm sự, vơi đi nguồn tủi, lúc vui tươi vọng cổ góp phần cho sự kiện hân hoan. Điều này đã được GSTS. Trần Văn Khê khẳng định: “Trong cổ nhạc Việt Nam, chưa có bài bản nào được như Dạ cổ hoài lang biến thành vọng cổ. Từ một sáng tác cá nhân đã biến thành sáng tác tập thể, sanh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống mạnh, biến hóa thiên hình vạn trạng và sống mãi trong lòng người Việt khắp năm châu bốn bể”.

Thật vậy, trong lịch sử âm nhạc dân tộc chưa từng có bản nhạc nào quen thuộc với mọi người và được xã hội hóa mạnh mẽ đến thế. NS Cao Văn Lầu và các NS, nghệ nhân sau này đã đem đến cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng kỳ diệu, nó trở thành niềm tự hào của người dân Bạc Liêu, nơi có những con người phóng khoáng, nghĩa tình và giàu lòng mến khách.

Trong không khí rộn ràng đón Xuân Tân Mão, chúng tôi nhận được tín hiệu lạc quan từ GSTS. Trần Văn Khê, tác giả Lê Duy Hạnh (Chủ tịch Hội Sân khấu TP.HCM) và ông Nguyễn Văn Tấn (Vụ trưởng, Giám đốc cơ quan đại diện Bộ VHTTDL tại TP.HCM) có đồng quan điểm: Để bản Dạ cổ hoài lang được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới, trước mắt tỉnh Bạc Liêu xúc tiến lập hồ sơ đề nghị Bộ VHTTDL xếp hạng bản Dạ cổ hoài lang là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Và nếu không có gì thay đổi, vào tháng 3 năm nay, hồ sơ bản Dạ cổ hoài lang sẽ được trình lên UNESCO. Khi ấy, nó không còn là di sản văn hóa của Bạc Liêu, mà là di sản của nhân loại, bởi nó đã khắc sâu trong tim của hàng triệu người yêu thích âm nhạc dân tộc gần trọn thế kỷ qua./.

Tải lời bài hát: http://media.tuoitre.com.vn/download/Tailieu/VHVN/dacohoailang.pdf



Nguồn: An ninh Thế giới

0 bình luận:

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...